“Những cái nhất” của ngày 17/2/1979
Đinh Hoàng Thắng
Đọc cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc
Vương từ Đại học Quốc gia nhân ngày tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam 41 năm trước đây, thú thật người viết bài này
không khỏi giật mình. Nói chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như
thắp một nén tâm hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sỹ và đồng bào ta đã bỏ
mình trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc vốn bị
lãng quên một cách nhẫn tâm và chóng vánh nhất.
Con số 100.000
chiến sỹ và đồng bào ta hy sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên
bố viết: “Lịch sử rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương
vong trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo
các nhà quan sát phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam đã hy sinh trong
hai cuộc chiến tranh biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc cộng sản gây ra
khoảng 100.000 người”.
Vâng, con số nói trên rõ ràng chưa được
thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp,
người dân và xã hội mới được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, thì việc
trích con số mất mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lý. Vẫn
biết chẳng hy vọng gì nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được bảo
đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến năm 2023, cam
kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lý. Còn trên thực tế thì chưa biết
đến “Tết Công gô” nào mới có!
Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà những nhà
báo trung thực dịp này vẫn “mũ ni che tai”? Tác giả bài này còn nhớ, dạo nọ,
nhân tưởng niệm ngày 17/2, một trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc
chiến tranh biên giới, nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ
“Trung Quốc” trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lý! Đỉnh cao của mọi
sự vô liêm sỉ! Ngay như 17/2 năm nay, các báo hầu như “không giám chấp” hay là
do “huý kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết như tránh dịch
Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả muốn đề xuất với các “sử
gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết bộ sử “chính thống” ấy không rõ
vì lý do gì đã bị ép quên hay tự lãng quên.
Thứ nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn tuyến biên giới bắt đầu
ngày 17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn nhất
nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời điểm kẻ địch phải
tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà nghiên cứu Lịch
sử Lê Mã Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất trong lịch
sử dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó với một đội quân xâm lược nhung
nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng quân sự 600.000 lính, cùng các phương
tiện chiến tranh hiện đại, tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một
tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với
các triều đại trước đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy
vậy mà, các sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290
dòng trên tổng số 103.000 dòng về các sự kiện qua 70
năm của bộ sử chính. Số chữ về cuộc chiến chiếm chưa đầy 0,003% toàn bộ số chữ
về các sự kiện từ 1930 đến 2000. Mỉa mai thay, các “sử nô” đã viết
về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để
bảo đảm trung tính và khách quan, vì chưa “thương lượng” xong với các “sử gia bạn”.
Thứ hai, từ đòn đánh bất ngờ ấy, một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất
đã diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng sử “chính thống”
chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết gì về cuộc chiến từ 1984 đến
1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, vẫn không biết gì về mức
độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn
1984-1989, Trung Quốc chết 15.178 quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực này, có
chỗ ta và địch giằng co nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đã tổn thất
4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ riêng
một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt hại
hơn 600 cán ,bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao ấy, các sư của
ta “mất” ít nhất 1200 người.
Thứ ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại cũng là một cuộc chiến dai
dẳng nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận đại Việt Nam. Như tuyên bố của CLB
Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi
giết người của đối phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược
Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung Quốc từng xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược
Tây Nam – Việt Nam, đặc biệt cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ
17/2/1979 đến 1989, vụ thảm sát binh sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một
số đảo đá thuộc Trường Sa ngày 14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm
giữ và xây các căn cứ quân sự trên đó.
Thứ tư, trong thời gian chiến tranh Trung – Việt 10 năm có lẻ ấy,
Trung Quốc đã vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối xử dã man nhất với thường
dân. Quân Trung Quốc đã thảm sát hàng ngàn tù binh, đặc biệt là 64
cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988, cùng với 2
tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng Biển Đông. Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc
Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến ngày nay.
Trên biên giới, lính Trung Quốc đã thảm sát dã man hàng ngàn thường dân, đặc biệt
ở Tổng Chúp, đã giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng Chúp, xã
Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.
Thứ năm, một cái nhất nữa không thể không nhắc đến: Chưa có một cuộc
chiến tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính quyền lẫn các sử quan
“lãng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất” (từ của GS. Trần Ngọc
Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000
dòng, trong đó dành cả chục ngàn dòng về cuộc chiến ý thức hệ từ
1954 đến 1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đã “tận tình giúp” để ta “đánh Mỹ
đến người Việt Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một
dòng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Sau hơn 4 thập kỷ, người ta
cố tình tung hoả mù lên tính chính danh của cuộc chiến. Không giám gọi kẻ xâm
lược là địch, các chiến sỹ ta hy sinh thì khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt
sỹ. Chứ không phải chết ngày hôm trước thì ngay hôm sau đã được truy tặng “Huân
chương Chiến công hạng nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng ý thức hệ!”
Từ những thiện nghĩ trên đây, có thể
thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho đến
hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ thù của ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng
Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước
ở biên giới Tây Nam và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới
phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn ngang nhiên bám vào đường “lưỡi bò” để đòi
chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng tài của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn bác bỏ.
Đúng như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng,
với chiến lược “vành đai con đường” Trung Quốc đã/đang bành trướng lãnh thổ,
xâm phạm biển đảo và thềm lục địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các
nước khác khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Bãi Tư Chính. Kẻ thù đó ngày
nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã/đang lôi kéo được nhiều
người mang dòng máu Việt Nam nhưng vì cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật
chất, có nhiều người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn, đã vô tình
hay hữu ý làm tay sai cho kẻ xâm lược đất nước mình./.
Có thể tham khảo thêm:
Tác giả gửi cho viet-studies ngày
17-2-20
Tưởng niệm 41 năm
cuộc chiến chống xâm lược Trung Quốc ở biên giới phía Bắc
Posted by: Tan Vinh Ho
Tưởng niệm 41 năm
cuộc chiến chống xâm lược Trung Quốc ở biên giới phía Bắc
CLB Lê Hiếu
Đằng
16-2-2020
Hàng năm,
cứ đến dịp 17 tháng 2 là các Tổ chức Xã hội Dân sự độc lập như CLB Lê Hiếu Đằng,
No-U, nhóm Vì Môi Trường, Hội Anh em Dân chủ… thường đến dâng hoa, thắp nhang
tưởng niệm đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến biên giới chống
Trung Cộng xâm lược (1979-1989) tại Tượng Đức Thánh Trần ở Bến Bạch Đằng, Sài
Gòn và Tượng Vua Lý Thái Tổ ở Hà Nội hoặc các nghĩa trang liệt sĩ chống Trung Cộng
xâm lược.
Năm nay do
dịch bệnh COVID-19 nên mỗi người Việt Nam yêu nước sẽ tự tưởng niệm Liệt sĩ chống
Trung Cộng xâm lược (17/2/1979) theo cách riêng của mình.
Các thành
viên CLB Lê Hiếu Đằng xin tri ân và thắp một nén nhang lòng tưởng niệm cho tất
cả đồng bào, chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược
Việt Nam khởi đầu ngày 17/2/1979!
Và xin có
nhận định sau đây về việc ghi nhận cuộc chiến nói trên trong sách Lịch sử Việt
Nam “chính thống”:
CUỘC CHIẾN
ĐẪM MÁU, DAI DẲNG CHỐNG TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC BỊ COI NHẸ HẾT SỨC TRONG SÁCH LỊCH
SỬ VIỆT NAM “CHÍNH THỐNG”
“5h sáng
ngày 17-2-1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400km
tiến vào sáu tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà
Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu, điều động 9
quân đoàn chủ lực, 2.559 khẩu pháo, 550 xe tăng và thiết giáp tiến sâu vào đất
Lạng Sơn, Lào Cai (30Km), Lai Châu (15km), Cao Bằng (50km).
Quân dân Việt Nam kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 tên địch, tiêu diệt, đánh thiệt hại nặng
3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280
xe tăng, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam”. (Trang 355, Tập 14, Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH)
Những dòng
trên là toàn bộ dung lượng viết về cuộc chiến chống Trung Quốc Cộng sản xâm lược
Việt Nam trong 10 năm ròng rã đẫm máu từ 17/2/1979 đến tháng 12/1988 trong bộ
sách “Lịch sử Việt Nam” của Viện Sử Học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam 15 tập, với
10.000 trang (khoảng 290.000 dòng). Riêng giai đoạn năm 1930 đến năm 2000 đã có
6 tập (tập 9-15), với tổng số khoảng 3.600 trang (ước khoảng 103.000 dòng).
1.-Tại sao lại gọi đó là cuộc chiến đẫm máu?
Bởi nếu so
với 58.000 lính Mỹ chết ở Việt Nam giai đoạn 1963-1973, thì số lính Trung Quốc
chết là 62.500 tên (1979-1989), nhiều hơn 4.500 tên. Chưa kể ngoài cuộc chiến
phía Bắc này, còn có cuộc chiến do Khmer Đỏ xâm lược Tây Nam – Việt Nam
1977-1978 từ cùng một bộ não chỉ huy là Cộng sản Bắc Kinh, và với trang bị hậu
cần, vũ khí giết người Việt Nam cũng “made in China” mà thiệt hại hai bên chưa
thấy công bố (?)
Lịch sử rồi
sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc chiến
chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát phương
Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam hy sinh trong hai cuộc chiến biên giới
mà nguyên nhân là từ Trung Quốc Cộng sản gây ra khoảng 100.000 người.
Còn nhiều
sự thật đã phơi bày ngay trước thanh thiên bạch nhật: 4 thị xã của Việt Nam là
Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Cam Đường bị quân Trung Quốc phá hủy hoàn toàn; 6
tỉnh Biên Giới phía Bắc Việt Nam bị Trung Quốc phá hủy triệt để hạ tầng giao
thông gồm cả đường sắt, đường bộ, cầu cống, điện, nước, và các cơ sở kinh tế kỹ
thuật khác như trụ sở cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, nhà ga, trường học,
bệnh viện, cửa hàng bách hóa… nơi quân Trung Quốc đi qua.
Sử “chính
thống” không ghi, nhưng báo chí nói nhiều đến việc quân Trung Quốc thảm sát dã
man người Việt Nam ở Tổng Chúp (chúng giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng
ở Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, TP Cao Bằng, tháng 2/1979).
Chính vì
sách Lịch sử “chính thống” viết quá sơ lược, thậm chí không viết về những sự kiện
chiến tranh biên giới Việt – Trung trong những năm 1984-1989, nên rất nhiều người
Việt Nam đến nay vẫn cho là cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược ngày 17/2/1979
chỉ kéo dài 1 tháng.
Nhiều người
Việt Nam trưởng thành vẫn tưởng nhầm cuộc chiến chống Trung Cộng xâm lược khởi
đầu 17/2/1979 đã chấm dứt khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố hoàn thành rút quân ngày
16/3/1979 do đã “dạy xong cho Việt Nam bài học”. Sự thật là do Trung Quốc thất
bại nặng nề về quân sự, do vũ khí lạc hậu, kỹ thuật, chiến thuật lạc hậu, chỉ
huy tác chiến kém, huấn luyện kém… khi tiến đánh Việt Nam, Đặng đã chỉnh huấn
như vậy khi họp Quân ủy Trung Quốc.
Nhiều sự
thật về những trận chiến sau đó, mà sách sử “chính thống” không nhắc đến, ví dụ
sơ lược vài dòng như sau:
Từ tháng
4/1984 – 12/1988, tại khu vực núi đá Vị Xuyên, Hà Giang là nơi được các chiến
sĩ tiền tiêu Việt Nam ở các sư đoàn F356, F313, F312, F316… gọi là “lò vôi thế
kỷ” (do hứng chịu hàng trăm ngàn quả đạn pháo cả hai bên làm núi đá bị nung
nóng thành vôi) đã đối đầu với nhiều sư đoàn, quân đoàn, quân khu của Trung Quốc
tấn công đánh chiếm, tái chiếm giằng co từng mét đất biên cương, bộ đội Việt
Nam đã tổn thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan chiến sĩ hy sinh, hơn 9.000
bị thương, hàng chục người bị bắt. Nhiều Liệt sĩ Việt Nam ở khu vực này đến nay
không có mộ, nhiều ngôi mộ vô danh vì cuộc chiến quá ác liệt nên thịt nát xương
tan lẫn lộn, khi quy tập đã không xác định được hình dạng, họ tên!
Chỉ riêng
tại mặt trận Vị Xuyên, Hà Tuyên giai đoạn (1984-1989) quân Trung Quốc bị chết
15.178 tên, bị thương 17.757 tên.
Chỉ trong
một đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tiến công tái chiếm các điểm cao 685, 1509,
772, 1030 do quân Trung Quốc đánh chiếm từ tháng 4/1984, riêng F356, quân đoàn
29, Quân khu II của Việt Nam đã thiệt hại hơn 600 sĩ quan, chiến sĩ (có nguồn
ghi ngày đó, tại các điểm cao trên các Sư đoàn Việt Nam bị thiệt hại 1200)“.
(Tóm tắt trang 449, 450 sách VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT TRUNG của Phạm Viết
Đào)
Quân Trung
Quốc còn thảm sát 74 sĩ quan chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày
14/3/1988, và Trung Quốc đã chiếm đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo
Trường Sa của Việt Nam cho đến nay.
Những sự
phá hoại và giết chóc hàng vạn người Việt Nam do Trung Quốc gây ra cho Việt Nam
(1979-1989) đã vượt quá bao lần giá trị Trung Quốc viện trợ hậu cần, nhân sự và
vũ khí cho Việt Nam đuổi Pháp (1950-1954) giúp tạo vùng đệm an toàn cho biên giới
phía Nam của Cộng sản Trung Quốc, và để Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chống Việt
Nam Cộng hoà (thực chất là giết hại đồng bào Miền Nam – Việt Nam) và “đánh Mỹ đến
người Việt Nam cuối cùng” (1954-1975)?
…
2.- Tại sao lại gọi là cuộc chiến dai dẳng?
(a) Nếu định
nghĩa chiến tranh xâm lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của nước đối
phương để chiếm lãnh thổ, thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa
kết thúc. Vì từ vụ Trung Quốc xâm lược, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng
Sa của Việt Nam ngày 19/1/1974; tiếp đó là Bắc Kinh dùng cộng sản Polpot xâm lược
Tây Nam – Việt Nam; đặc biệt cuộc xâm lược 6 tỉnh biên giới Bắc Việt Nam từ
17/2/1979 -1989; vụ thảm sát 64 sĩ quan binh sĩ Việt Nam tại Gạc Ma để chiếm Gạc
Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa của Việt Nam ngày 14/3/1988, cho đến nay,
Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây căn cứ quân sự trên đó. Cuộc chiến tranh sử
dụng “sức mạnh cứng” như thế chưa kết thúc.
(b) Nếu
xét theo loại hình xâm lược bằng “sức mạnh mềm” như dùng chiến tranh tâm lý,
kinh tế, văn hóa, giáo dục, luật pháp, ý thức hệ, thể chế chính trị… để một quốc
gia này bắt quốc gia khác phải quy phục, phải lệ thuộc, phải “gọi dạ, bảo
vâng”, thì Trung Quốc Cộng sản đã thực hiện loại hình này với Việt Nam ngay từ
khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ
ngày 18.1.1950 đến nay.
Nhà ngoại
giao kỳ cựu từng làm Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh 14 năm (1974-1987), Lão tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh viết:
“Lược lại
một đoạn lịch sử quan hệ Trung Quốc- Việt Nam thì thấy: Ngay từ những năm 50 của
thế kỷ 20, khi hai nước còn “hữu hảo” lắm, thì họ đã muốn chinh phục ta bằng lý
luận tư tưởng Mao Trạch Đông qua nhiều con đường sách báo, các đoàn cố vấn, các
mối quan hệ qua lại… Ta cũng có thời kỳ bị ảnh hưởng về lý luận, tư tưởng đó. Bằng
chứng là lúc đó trong trường Đảng của ta còn có chương trình học tư tưởng Mao
Trạch Đông và trong thực tiễn cũng làm nhiều việc theo cách của Trung Quốc như
việc cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ hoặc việc chỉnh đốn tổ chức đấu tố “phản
tỉnh” trong nội bộ…Trung Quốc chuyển sang chinh phục ta bằng kinh tế… họ bắt ta
phải hàm ơn, phải đi theo… muốn giữ ta luôn ở thế yếu… Trung Quốc không muốn ta
đàm phán (với Mỹ) mà muốn ta ‘đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng’…’Trung Quốc
muốn kéo ta vào tầm ảnh hưởng, bắt ta phải thần phục họ’… Trung Quốc quen đối xử
với các nước nhỏ theo cách kẻ cả, bất công bằng như thời bộ lạc ‘mạnh được yếu
thua’, không còn coi công lý là gì ‘nghe lời ta thì được ‘tốt đẹp’, chống lại
ta thì ta cho chết”. (Trang 115, 117, 118,119 sách “Kể Lại Cuộc
Đời”, Hồi ức của Nguyễn Trọng Vĩnh).
Nay thì,
ngay từ Lời nói đầu, Chương 1 của Hiến pháp Việt Nam đến nhiều điều cơ bản về
thể chế chính trị, CHXHCN Việt Nam cũng “giống” Hiến pháp Trung Quốc. Rồi đến
các chính sách mở cửa, cổ phần hóa, đa dạng các loại hình kinh tế… gần đây nhất
là Luật Khu Hành Chính và Kinh Tế Đặc Biệt, Luật An Ninh Mạng thì Cộng sản Ba
Đình luôn luôn giẫm đúng vết chân người đồng chí anh em bốn tốt Cộng sản Trung
Nam Hải bất kể những chính sách, đạo luật ấy tốt hay xấu cho người dân Việt
Nam.
Đến mức chỉ
số minh bạch, chỉ số Tự do báo chí, Tự do internet, điểm số về đàn áp Nhân quyền…
thì Việt Nam luôn luôn theo sát sàn sạt người anh em Cộng sản Trung Quốc.
Từ những
điều trên đây, có thể khẳng định rằng cuộc chiến giành tự do độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ của nhân dân Việt Nam đến nay chưa kết thúc, đó là một “cuộc chiến dai
dẳng”. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của
Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước ở
biên giới Tây Nam, và 41 năm trước (từ 17/2/1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới
phía Bắc. Nay kẻ thù vẫn ngang nhiên vẽ “lưỡi bò” để chiếm 80% biển Đông của Việt
Nam, đang chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam; kẻ với chiến lược “vành đai
con đường” để bành trướng lãnh thổ; kẻ quấy phá biển đảo và thềm lục địa Việt
Nam không để Việt Nam yên bình hợp tác với các nước khác khai thác dầu khí ở
khu mỏ Cá Rồng Đỏ, bãi Tư Chính năm 2018, 2019…
Kẻ thù đó
ngày nay với “sức mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã lôi kéo được nhiều
người mang dòng máu Việt Nam nhưng cơ hội chính trị và tham lam quyền lực và vật
chất, nhiều kẻ mang danh là trí thức Việt Nam cũng bị mờ mắt, bị lú lẫn đã vô
tình hay hữu ý làm tay sai cho bọn xâm lược đất nước của ông cha mình.
Bộ lịch sử
15 tập, hơn 10.000 trang, với khoảng 290.000 dòng, viết cả chục ngàn dòng (ở
hai tập 12, 13 với 1100 trang) về cuộc chiến ý thức hệ 1954-1975, cuộc chiến mà
Cộng sản Trung Quốc “anh em” đã “tận tình giúp đỡ vũ khí, hậu cần” để “ta đánh
Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhưng chỉ viết 11 dòng về cuộc chiến chống
Trung Quốc xâm lược Việt Nam với hàng chục vạn người Việt Nam chiến đấu hy sinh
ở thế kỷ 20. Việc này làm lợi cho ai?
Tại sao
sách sử “chính thống” hiện đại của Việt Nam không liệt kê những thiệt hại vật
chất và sinh mạng vô cùng thảm khốc của Việt Nam trong hai cuộc chiến biên giới
do Trung Cộng gây ra (1979-1989), mà lại ghi khá rõ “Việt Nam luôn luôn luôn biết
ơn sự tận tình giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc” (trang 351, tập 14
Lịch sử Việt Nam, NXB KHXH) với những hạng mục vật chất, kinh tế, nhân sự khá
chi tiết để Việt Nam đánh đuổi hai nền văn minh Pháp và Mỹ (1950-1975), để Việt
Nam quay về thần phục Thiên Triều mọi mặt như ngàn năm phong kiến lạc hậu trước
kia?
Phải chăng
Viện Sử Học của Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam cũng bị “tê liệt và thất
thủ” trước cuộc xâm lăng bằng “sức mạnh mềm” của Cộng sản Bắc Kinh còn đang tiếp
diễn?
CÂU LẠC BỘ LÊ HIẾU ĐẰNG
__._,_.___
__._,_.___
No comments:
Post a Comment